Dự án chung cư HH1 Mễ Trì, khu đô thị Mễ Trì Hạ huy động hàng tỷ đồng của nhà đầu tư nhưng đến nay vẫn là bãi đất hoang
Vị trí dự án |
Nằm tọa lạc trên đường Mễ Trì, được xem là khu đất vàng của quận Nam Từ Liêm, ngang qua Dự án chung cư HH1 Mễ Trì, khu đô thị Mễ Trì Hạ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội người đi đường có thể dễ nhận thấy tấm biển công trình ghi rõ ngày khởi công quý 4 năm 2014, dự kiến hoàn thành quý 4 năm 2017. Nhưng ít ai ngờ rằng dự án này (gọi tắt HH1) bị bỏ hoang từ nhiều năm nay. Bỏ ra hơn 10,351 tỷ đồng, chưa kể hơn 2,6 tỷ đồng tiền “chênh” để đầu tư mua sàn căn hộ ở dự án này, nhưng bà Bùi Quyên không khỏi thất vọng vì dự án sau 7 năm vẫn là bãi đất trống.
Khu đất dự án bỏ hoang
Trả lời về tiến độ xây dựng dự án chung cư HH1 Mễ Trì theo yêu cầu của khách hàng, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng 573 thuộc Tổng công ty Công trình giao thông 5 liên doanh hợp tác đầu tư với Công ty Cổ phần Tu tạo và Phát triển nhà, chủ đầu tư có văn bản số 110/C-TCKD, ngày 29/3/2012 cho biết: “Do có sự thay đổi về công năng sử dụng của tòa nhà nên việc xin cấp phép xây dựng gặp phải nhiều khó khăn. Vì vậy, sau khi nhận được công văn số 148/SXD-CP ngày 12/12/2011 của Sở Xây dựng Hà Nội v/v: miễn giấy phép xây dựng của dự án Tổ hợp văn phòng, khách sạn và căn hộ cao cấp” tại lô HH1, khu đô thị Mễ Trì Hạ chúng tôi mới có thể tiến hành dự án”.
Cũng tại văn bản này, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng 573 (Công ty 573) cho biết: “Tính đến thời điểm hiện nay (29/3/2012-PV), dự án đang triển khai thi công hạng mục khoan nhồi với tiến độ 2 cọc/ngày, ngoài 5 cọc thử chúng tôi đã thực hiện được 12 cọc trên tổng số 89 cọc nhồi”.
Cùng đó, phía Công ty 573 thông báo tới khách hàng về tiến độ triển khai hoàn thành dự án. Theo đó, dự kiến hết quý II/2012 thi công xong phần cọc và đến hết quý II/2014 hoàn thiện và bàn giao nhà.
Tính đến thời điểm 14/11/2012, bên góp vốn đã hoàn thành việc góp vốn đầy đủ và đúng hạn cho lần thanh toán thứ nhất 50% giá trị hợp đồng góp vốn và lần thanh toán thứ hai là hơn 1,167 tỷ đồng theo quy định trong hợp đồng góp vốn. Theo thông báo nộp tiền lần thứ hai của chủ đầu tư về việc đóng 10% giá trị hợp đồng đo công trình đã được khởi công vào thời điểm tháng 12/2010, tại công văn số 378/CV-TCKD ngày 10/10/2011 gửi cho khách hàng Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng 573 khẳng định công trình đã được khởi công chính thức vào ngày 15/12/2010.
Tuy nhiên, trong khi công trình chưa được khởi công phía đối tác liên doanh là Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng 573 đã tiến hành huy động vốn qua hình thức bán các sàn cho nhà đầu tư, trong khi đó phía Công ty Tu tạo và Phát triển nhà đơn vị chủ đầu tư gốc chưa bán bất cứ một sàn nào.
Theo bà Quyên, việc mua 1 sàn căn hộ tầng 19 thuộc dự án chung cư HH1 Mễ Trì được bà mua lại của ông Đinh Hải Quang và bà An Phương Thảo trực tiếp ký hợp đồng góp vốn với chủ đầu tư là Công ty 573 (Công ty 573 cũng không phải nhà đầu tư trực tiếp mà liên doanh với chủ đầu tư gốc là Công ty Cổ phần Tu tạo và Phát triển nhà).
Sau 7 năm bỏ hoang vẫn chưa bị thu hồi
Việc chuyển tiền theo tiến độ hợp đồng với chủ đầu tư được bà Quyên chuyển cho vợ chồng ông Đinh Hải Quang. Sau hơn 1 năm, bà Quyên đã được chủ đầu tư xác định quyền được ủy quyền và phải nộp thẳng tiền cho chủ đầu tư.
Tuy nhiên, sau 1 năm chậm thời hạn giao nhà của chủ đầu tư: “Chúng tôi yêu cầu chủ đầu tư thông tin về dự án, chứng minh nghĩa vụ tài chính, tiến độ xây dựng, mặc dù họ có đưa ra tiến độ giao nhà quý II năm 2014, nhưng đến nay vẫn chưa khởi công”.
Sau nhiều năm có quyết định đầu tư dự án gần 2.349 m2 đất vẫn quây tôn, bỏ hoang phế cây cỏ mọc um tùm. Các sàn đầu tư đã có yêu cầu nếu chủ đầu tư không xây dựng thì phải trả lại tiền góp vốn. Qua nhiều buổi làm việc, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng 573 đồng ý cam kết lộ trình trả nợ. Tuy nhiên, từ tháng 9/2014 đến nay số tiền mới trả chỉ 1/3 (khoảng 3,5 tỷ đồng/10,351 tỷ) chưa kể lãi.
Sau 7 năm dự án vẫn là bãi đất trống, chủ đầu tư không thực hiện đúng cam kết vậy số tiền đầu tư hàng trăm tỷ đồng huy động của khách hàng rất cần chủ đầu tư phải làm rõ. Hơn nữa, sau 7 năm đất không đưa vào sử dụng vẫn chưa thực hiện thu hồi phải chăng có sự buông lỏng quản lý, tiếp tay của cơ quan chức năng.